Khái Quát Văn Học Viết Bắc Giang

Khái Quát Văn Học Viết Bắc Giang

Văn học Mỹ: văn xuôi, hư cấu và bất hư cấu của các nước thuộc địa Mỹ và chính nước Mỹ, được viết bằng tiếng Anh trong thời gian từ năm 1600 đến nay. Nền văn học này phản ánh nhu cầu hiểu và định nghĩa chính bản thân mình của người Mỹ. Ngay từ đầu nước Mỹ đã là độc nhất về tính đa dạng sắc tộc; theo thời gian dân mỹ đến từ mọi nơi trên thế giới. Tuy tiếng Anh nhanh chóng trở thành ngôn ngữ của nước Mỹ, các thứ tiếng địa phương ngay từ đầu cũng góp phần làm phong phú nền văn học quốc gia này. Ngày nay văn xuôi Mỹ chứa đựng nhiều truyền thống và giọng văn khác nhau nhưng có cùng một bối cảnh chung: một đất nước được biết đến với tên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. văn học bản địa Mỹ, chủ yếu là truyền miệng vào thời gian định cư của các di dân, đứng riêng thành một truyền thống độc lập vững mạnh và đa dạng.

Văn học Mỹ: văn xuôi, hư cấu và bất hư cấu của các nước thuộc địa Mỹ và chính nước Mỹ, được viết bằng tiếng Anh trong thời gian từ năm 1600 đến nay. Nền văn học này phản ánh nhu cầu hiểu và định nghĩa chính bản thân mình của người Mỹ. Ngay từ đầu nước Mỹ đã là độc nhất về tính đa dạng sắc tộc; theo thời gian dân mỹ đến từ mọi nơi trên thế giới. Tuy tiếng Anh nhanh chóng trở thành ngôn ngữ của nước Mỹ, các thứ tiếng địa phương ngay từ đầu cũng góp phần làm phong phú nền văn học quốc gia này. Ngày nay văn xuôi Mỹ chứa đựng nhiều truyền thống và giọng văn khác nhau nhưng có cùng một bối cảnh chung: một đất nước được biết đến với tên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. văn học bản địa Mỹ, chủ yếu là truyền miệng vào thời gian định cư của các di dân, đứng riêng thành một truyền thống độc lập vững mạnh và đa dạng.

Thời kỳ đầu: từ năm 1500 đến 1600

Khi các nhà thám hiểm châu Âu lần đầu tiên nhìn thấy Bắc Mỹ, văn hóa bản địa nơi đây vốn đã phong phú, đã có văn chương, truyền thuyết, truyện dân gian và các hình thức khác của văn học cũng được bảo tồn qua hình thực truyền miệng và gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các lễ hội và những cuộc tụ họp trong cộng đồng, cũng như giữa các nhóm gia đình và các nhóm người thân thích với nhau. Đa phần nền văn học này đã biến bất cùng với sự sụp đổ của các nền văn hóa người Mỹ bản xứ từ khi dân da trắng bắt đầu định cư trên lục địa này. Trong số các bộ truyện phong phú nhất của dân Mỹ bản xứ còn sót lại có các truyền thuyết về tạo dựng, các trình thuật về sự bắt nguồn của vũ trụ và thế giới cùng với nguồn gốc của loài người. Trong các nền văn hóa dân Mỹ bản xứ, những truyền thuyết này phục vụ cho những mục đích tương tự với các truyền thuyết trong nền văn hóa của dân Do Thái và đạo Thiên Chúa được chép trong sách Sáng Thế. Truyền thuyết tạo dựng trong các nền văn hóa của dân Mỹ bản xứ đồng quan điểm với các trình thuật trong sách Sáng Thế liên quan đến mối quan hệ giữa giống loài thiêng liêng là con người và thế giới động thực vật; lý do đằng sau những mối quan hệ này; và trường ca về vũ trụ  trước khi loài người xuất hiện.

Rất lâu trước khi những di dân đến đất Mỹ, các nhà thám hiểm đã báo cáo về những chuyến hành trình của mình tới lục địa này. Trong những năm 1600 văn chương Mỹ phát triển từ các truyện phiêu lưu thám hiểm đến các truyện lịch sự về việc định cư nơi đây- cá lịch sử tự nhiên về đất đai và lịch sử xã hội về con người. Các tác phẩm tôn giáo trình bày giá trị và tín ngưỡng của các nước thuộc địa Mỹ.

Các tác phẩm văn chương sớm nhất nói về đất Mỹ chứa đựng những ấn tượng về nơi đây được ghi lại bởi các nhà thám hiểm châu Âu sau khi họ trở về nhà, nhà thám hiểm người Ý Amerigo Vespucci cung cấp những trình thuật sớm nhất của châu Âu nói về châu Mỹ viết trong các bức thư và bản đồ từ trong một cuộc thám hiểm và năm 1499 và 1500; Những trình thuật này đã xuất hiện trong bản in năm 1505. Năm 1507 nhà địa lý người Đức và cũng là chuyên gia vẽ bản đồ Martin Waldsseemuller xuất bản cuốn Cosmographic Introduction (giới thiệu địa lý toàn cầu), một bộ sưu tập các tài liệu bao gồm thư từ được viết bởi thủy thủ người Ý gốc Tây Ban Nha Christopher Columbus gửi cho nhà bảo trợ của mình, vua Ferdinand và hoàng hậu Tây Ban Nha Isabella. Các bản thảo đó được lưu truyền giữa các nhà thám hiểm và các quan chức cao cấp là những người đã ra quyết định cấp ngân sách cho nhiều chuyến thám hiểm hơn.

Các tác phẩm đầu tiên nói về châu Mỹ xuất bản tại Anh cuộc ghi lại các chuyến khám phá và tha thiết xin thêm kinh phí cho các chuyến đi mới. Trước năm 1600 Ngài Walter Raleigh, Richard Hakluyt, Thomas Harriot và John White đã xuất bản những trình thuật thám hiếm. Tuy các câu chuyện của Raleigh chủ yếu nói về vùng đất ngày nay gọi là Venezuela, ông đã trở thành nhân vật chủ chốt trong lịch sử Anh tại Bắc Mỹ khi ông thiết lập thuộc địa đầu tiên của anh tại nơi nơi này, thuộc địa Roanoke, vào năm 2585 dưới sự bảo trợ của nữ hoàng Elizabeth đệ nhất, trên một hòn đảo ngoài khơi một nơi giờ đây gọi là Bắc Carolina.

Để hỗ trợ cho Raleigh, Thomas Harriot viết cuốn bản tường trình thực tế và tóm lược và vùng đất mới Virginia (1588), để thúc đẩy những viện trợ dài hạn của nữ hoàng cho thuộc địa Roanoke, nơi những di dân đầu tiên đã thất bại trong việc định cư. Tác phẩm của Harriot bao gồm những trình thuật về dân số bản địa cũng như những quan sát về đời sống động thực vật quanh vùng thuộc địa. Richard Haluyt chưa bao giờ đến Mỹ, nhưng tác phẩm của ông rất đắc lực trong việc thúc đẩy nữ hoàng đầu tư thêm tiền bạc cho các chuyến đi khám phá. Ông sưu tầm các cuốn nhật kí, các bức thư, các cuốn nhật kí hàng hải, hay các báo cáo thương mại chủ yếu đến từ các đồng hương người Anh của ông và từ những chuyến đi của người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, Pháp. Haluyt đã xuất bản những bài viết này trong cuốn Muôn màu những chuyến khám phá đất Mỹ (1582) và cuốn những Chuyến đi, hành trình, du ngoạn và khám phá đất Mỹ.  Trong những ghi chép này, Hakluyt đã tạo ra những tuyên bố lớn cho đế quốc anh và lần đầu tiên khẳng định đất Mỹ là của riêng nước Anh.

Một tài liệu sau này của Haluyt bao gồm cuốn Hành Trình Thứ Năm của M.John White đến Miền Tây xứ Ấn và một phần đất Mỹ gọi là Virginia, trong năm 1950 (1953), cuốn sách được viết bởi John White. Tác phầm của White tập trung vào những bí ẩn lớn. Ông đã dẫn một nhóm những di dân thành lập thuộc địa thứ hai trên đảo Roanoke Island, và sau sự ra đời của đứa con đầu tiên của nước anh trên đất Mỹ, cô cháu gái Virginia Dare, Whire quay về Anh xin viện trợ. Trên chuyến trở về Roanoke, mọi dấu hiệu của thuộc địa đó đã biến mất. Số mệnh của thuộc địa này đến nay vẫn còn là một bí ẩn.

Những ghi chép của thuyền trường John Smith, một nhà thám hiếm có những chuyến đi qua lại vùng bờ biển phía tây đất Mỹ, đã trình bày một sự thay đổi từ thể loại truyện khám phá sang thể loại lịch sử. Các câu chuyện khám phá về cơ bản ghi lại những hiểm nguy và sự li kỳ trong các cuộc chạm trạn vô danh, còn lịch sử sơ khai về đất Mỹ về mặt tiểu thuyết cũng chứa đựng những ý nghĩa này. Tuy nhiên thể loại lịch sử được viết chủ yếu bới các di dân chứ không phải bởi các nhà thám hiểm. Nhìn chung họ tìm kiếm những lời giải thích mang tính tôn giáo-quy kết mọi sự là do ý muốn của chúa-cho những hiểm nguy và thử thách trong cuộc sống nơi thuộc địa. Tuy Smith vẫn tiếp tục viết để xin thêm ngân sách cho các chuyến đi sau này, nhưng ông cũng bắt đầu ghi lại các quan sát của mình với tư cách một nhà sử học trong cuốn Sơ Lược về Nước Anh Mới (1616)

William BradFord, thị trưởng đầu tiên của thuộc địa Plymouth, viết trong cuốn Lịch Sử cuộc di dân sang Plymouth từ năm 1630 đến 1647, nhưng mãi đến năm 1856 nó mới được xuất bản. Các trình thuật sớm hơn được xuất bản tại Anh bao gồm Tin Mừng Cho Nước Anh Mới (1624) của Edward Winslow và Thân thích của Mourt (1622) của một tác giả vô danh cung cấp một nguồn tài liệu dồi dào cho Bradford khi ông thuật lại những năm đầu tiên của thuộc địa này. John Winthrop, người đã phục vụ trong tư cách thụ trường của thuộc Massachusett Bay từ 1630 đến 1649, gìn những tạp chí mở rộng mà gần 200 năm sau mới được xuất  bản với tên Lịch Sử Nước Anh Mới từ 1630 đến 1649 (1825-1826). Một nhà sử học quan trọng khác của đất Mỹ sơ khai đó là Thomas Morton, tác phẩm Đất Hứa cho nước Anh Mới (1634-1634) sử dụng lối văn trào phúng để phác họa những gì ông xem là sự hống hách và kiêu căng của những người theo Thanh Giáo.

Tìm hiểu thêm về nước Mỹ:Tổng thống Abraham Lincoln và nước Mỹ chia rẽPháo đài Sumter và nguy cơ Nội chiến Hoa KỳChính sách đối ngoại của Mỹ thế kỷ 19

Lịch sử sơ khai Mỹ, nhất là tại nước Anh mới, đầy rẫy những những điều liên hệ với thánh kinh và với ý Chúa. Hầu như tất cả mọi sự kiện đều có thể được giải thích từ quan điểm tôn giáo: Bão và bệnh tật được cho là sự giận dữ của chúa; một vụ mùa bội thu ấy là được Chúa chúc lành. Dựa vào giáo lý của Thanh Giáo về một một quan hệ trực tiếp với chúa trời, không lạ gì khi các bài giảng thuyết và các tác phẩm tôn giáo khác chiếm thể chủ đạo trong văn chương Mỹ những năm 1600. John Catton, Thomas Hooker, Roger William, và John Windrop là một số nhà thần học nổi bật trong thế hệ định cư đầu tiên. Theo sau họ là nhà Mather-Richard Mather, con trai của ông Increase Mather, và con trai của Increase Cotton Mather-tại thuộc địa Massachuset Bat. Các tác phẩm tôn giáo ghi lại những cuộc tranh luận sôi nổi về giáo lý của giáo hội, chẳng hạn như vai trò của ý chí tự do và sống công chính trong sự cứu rỗi cá nhân, tuy nhiên cũng có một số vấn đề được các nhà thần học tranh luận vượt khỏi lãnh  vực tôn giáo. Cuốn Chìa khóa bước vào ngôn ngữ đất Mỹ của William (1643), ta hãy lấy làm ví dụ, nổi bật với những nỗ lực của nó nhằm thấu hiểu những phẩm chất của người Indian bản xứ.

Sư liên hệ khác giữa những người bản xứ và các di dân đó là khá lạnh nhạt. Increase Mather viết một cuốn lịch sử viết về cuộc xung đột kéo dài giữa người Mỹ bản xứ và những di dân thuộc địa, được biết đến với cái tên cuộc chiến của vua Philip. Trong cuốn Lược sử cuộc chiến với người Indian tại nước Anh mới (1676), Mather thúc giục cộng đồng của ông ta cải thiện để đức Chúa không nhắm vào họ mà ra thêm án phạt như thế nữa.

Marther cũng đóng vai trò lớn trong việc xuất bản cuốn Vương Quyền và Sự Nhân Lành của Chúa… Câu chuyện về sự giam cầm và hoán cải của Mary Rowlanson (1682). Tác phẩm này là tác phẩm đầu tay của một di dân bị người Indian bắt giữ trong suốt cuộc chiến của vua Philip. Nó trình bày một câu chuyện hư cấu về sự gian khổ và nỗ lực của Rowlanson để mang đến ý nghĩa cho sự gian khổ đó. Câu chuyên của cô trở thành mẫu mực  cho một dòng mới trong nền văn chương sơ khai Mỹ: thể loại Giam Cầm. Những tác phẩm như thế trở thành chủ đạo của văn xuôi Mỹ và thậm chí còn là chất liệu cho thể loại hư cấu Mỹ. Trong khi vẫn giữ giọng văn và mục đích tôn giáo, các câu chuyện thuộc thể loại giam cầm nhấn mạnh đến những kinh nghiệm cá nhận hơn là những biến chuyển của những đất nước. Chúng cũng kết hợp nhiều yếu tố hư cấu, tạo ra một lối sử dụng những nhân vật giàu tính cảm, lối hành động gay cấn và theo khuân mẫu, những nguồn tội lỗi được miêu tả sinh động trong những cách thể hiện rập khuân sự độc ác của dân bản xứ.

Trong suốt những năm 1700, văn xuôi Mỹ trải qua những thay đổi mãnh liệt về hình thức, đề tài, và mục đích khi mà những thuộc địa tiến tới việc tuyên bố sự độc lập của bản thân đối với Nước Anh Vĩ Đại. Vào lúc bắt đầu thể kỉ này, văn xuôi vẫn duy trì tính tôn giáo trong chiều hướng của mình để tạo ra ý nghĩa cho điều được xem như là một thế giới mới đã định. Theo dòng thế kỷ, những tư tưởng chính trị-nhất là có liên quan đến mối quan hệ giữa thuộc địa và mẫu quốc-ngày càng xâm lấn các nhà văn Mỹ.

Thể loại văn tôn giáo vào những năm 1700 đã đạt được kết cấu ở mức độ cao trong cuốn “những tội nhân trong bàn tay Đức Chúa nóng tính” (1741), một bài thuyết giảng nổi tiếng bậc nhất của tu sỹ Jonathan Edward. Sức mạnh của tác phẩm này làm dấy lên một nỗi sợ hãi mang tính tôn giáo đè nặng trên cộng đoàn của ông trong nước mắt. Là một nhà hùng biện mạnh mẽ, Edward mở ra một phong trào phục hưng được biết đến với cái tên Sự Thức Tỉnh Vĩ Đại để chấn hưng lại việc cử hành tôn giáo tại thuộc địa. Ý tưởng của Edward là một sự pha trộn phức tạp, được hình thành không chỉ từ học thức và tình yêu của ông đối với Thanh Giáo và còn bởi làn sóng triết học châu Âu và thế kỷ 17 và 18. Một số tác phẩm nổi bật nhất của Edward cũng là những bản nghiên cứu triết học. Trong cuốn Khảo luận tỉ mỉ và chặt chẽ về… Khái niệm… Tự do ý chí… (1754), Edward tranh luận rằng hành vi của con người đã được Đức Chúa định đoạt từ trước, vì thế ông phủ nhận khái niệm tự do ý chí.

Cotton Mather vẫn là một nhà văn quan trọng của thế kỷ 18. Cuốn Magnalia Christi America của ông (Sự quan phòng của đức chúa Kitô trên đất Mỹ,1702) là một cuốn sử thi về nước Anh Mới ca ngợi sự khai sinh ra thế hệ những người Thanh Giáo. Như tác phẩm trước của ông, nó chủ yếu mang tính tôn giáo, tuy nhiên, xét về mặt kích cỡ, chiều sâu, và mối quan tâm đến con người của những nhà sáng lập Thanh Giáo thì nó đã đánh dấu một thành công mới trong văn chương lịch sử Mỹ. Sự nghiệp sáng tác của Mather còn bao gồm các tác phẩm khoa học và y học cũng như thần học và lịch sử. Cuốn Quan điểm về tiêm chủng đậu mùa (1721) là tác phẩm giới thiệu vắc-xin kháng bệnh đậu mùa cho nước Anh Mới.

Như đã thấy trong sự nghiệp của Mather, phạm vi trong văn xuôi Mỹ đã được mở rộng từ sau năm 1700. Với Người da đen cải đạo (1706), Mather cũng trở thành một trong những người Mỹ đầu tiên đề cập đến vấn đề đầy tranh cãi đó là người da đen có nên được phép học giáo lý ki tô giáo và  gia nhập giáo hội. Chế độ nô lệ đã du nhập vào các thuộc địa Mỹ vào đầu thế kỉ 17. Cho đến đầu thế kỷ mười tám, các quan điểm phản nô lệ mới trỗi dậy. Trong năm 1700 nước Anh Mới đã trừng phạt Samuel Sewall vì một cuốn tiểu luận chống chế độ nô lệ, “Cuộc Buôn Bán Joseph”, tác phẩm dẫn ra cả những tài liệu kinh thánh lẫn luật pháp.

Một dòng văn mới trong văn chương Mỹ, truyện phiêu lưu, vào những năm 1700 sau này nó có sức ảnh hưởng đặc biệt mạnh. Một trong các tác phẩm đầu tiên là của một giáo viên, Sarah Kemble Knight. Cuốn Chuyến đi của vị nữ hiệp sĩ, viết vào năm 1704 nhưng đến năm 1835 mới được xuất bản, là một trình thuật sống động về chuyến đi đầy ngặt nghèo của bà qua những vùng lãnh thổ của người Indian bản xứ. So với Rowlandson hai mươi năm trước đó thì vị hiệp sĩ này ít quan tâm tới việc đưa ra những lý giải tôn giáo cho chuyến đi của mình, nhưng chú trọng hơn tới việc thuật lại những hiểm nghèo bà gặp phải ngày này qua ngày khác. Chuyến đi của bà một điển hình trong một chuỗi dài các tác phẩm phiêu lưu bao gồm các cuốn Du hành qua các vùng Bắc Mỹ (1778) của Jonathan Carver và Du hành qua bắc và nam Carolina… (1791) của William Bartram.

Một cuốn sách với nội dung kể về những kinh nghiệm tại vùng đất mới cũng tương tự dạng truyện phiêu lưu đó là Những bức thư từ một nông dân Mỹ (1782) của nhà văn Pháp Michel Guillaume Jean de Crevecouer. Tác phẩm này cũng thuộc thể loại hư cấu trong văn chương Mỹ, nhất là trong cách tạo ra nhân vật dẫn truyện ở ngôi thứ nhất, bác nông dân James. Với lối viết hướng tới cái kết của cuộc Cách Mạng Mỹ, Những bức thư từ người nông dân Mỹ là một nỗ lực đáng khen nhằm diễn tả và định nghĩa một người Mỹ nghĩa là như thế nào.

533-0013 2chome 16-4, Toyosato, Higashiyodogawa-ku, Osaka

Khái quát về lịch sử - văn hóa Hưng Nguyên

Huyện Hưng Nguyên ra đời vào năm 1469, khi vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ hành chính của cả nước.Huyện Hưng Nguyên chính thức ra đời từ đó.  Đến năm 1831, Nghệ An tách thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Huyện Hưng Nguyên thuộc phủ Anh Đô thừa tuyên Nghệ An.

Trong khoảng 330 năm đầu, kể từ khi có tên gọi, ranh giới huyện Hưng Nguyên khá ổn định và rộng lớn; phía bắc là dãy núi Đại Hoạch (Thần Vũ), phía tây là dãy núi Đại Hải, phía tây nam và phía nam là núi Thành, sông Lam, núi Quyết, phía đông là huyện Chân Lộc. Khi đó, Hưng Nguyên có 7 tổng và 96 xã, thôn, đó là các tổng Phù Long, Thông Lãng, Đô Yên, Hoa Viên, Hải Đô, Cảo Trình và La Hoàng. Dưới thời Pháp thuộc, vào năm 1898, huyện Hưng Nguyên được đổi thành phủ Hưng Nguyên. Phủ quản lý hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, trong đó các tổng của huyện Hưng Nguyên do phủ trực tiếp quản lý. Năm 1911 sáp nhập hai tổng cảo Trình (Vân Trình) và La Hoàng (La Vân) về huyện Nghi Lộc. Đổi lại chuyển tổng Yên Trường của huyện Nghi Lộc về phủ Hưng Nguyên trực tiếp quản lý. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đã nhiều lần điều chỉnh địa giới. Các làng phía hữu ngạn sông Lam thuộc tổng Phù Long cũ sáp nhập vào huyện Nam Đàn. Hai xã Hải Đô và Nguyệt Tĩnh thuộc tổng Hải Đô cũ sáp nhập vào huyện Nghi Lộc. Tám xã của huyện Hưng Nguyên lần lượt sáp nhập vào Thành phố Vinh. Năm 2009 xã Hưng Yên tách thành 2 xã Hưng Yên Nam Nam và Hưng Yên Bắc. Từ đó huyện Hưng Nguyên có 1 thị trấn và 22 xã. Đến năm 2019 huyện Hưng Nguyên chỉ còn 159 km2, khoảng một nửa khi mới thành lập. Sau năm 2019 Hưng Nguyên tiếp tục sáp nhập xã đến nay Hưng Nguyên có 17 xã và 1 thị trấn

Mảnh đất và con người Hưng Nguyên

Huyện Hưng Nguyên từ xưa là địa bàn chiến lược về quân sự. Nhiều vị Vua hiền đã đến đây kinh lí hoặc cầm quân đánh giặc, như: Lê Đại Hành (1003), Lê Thái Tổ (1425), Lê Thánh Tông (1470), Quang Trung (1789), Thiệu Trị (1842). Hưng Nguyên phát triển huy hoàng vào thời Lê. Ngoài nghề trồng lúa nước và chăn nuôi, còn phát triển nhiều nghề khác. Phố Phù Thạch xã Phục Lễ và các làng dưới chân núi Thành, là nơi nhộn nhịp buôn bán, không những đối với người trong nước, mà còn cả người Nhật và người Trung Hoa. Trên bản đồ Đại Việt ngày ấy, người Nhật đã khoanh một vòng tròn mực đỏ đậm nét quanh chữ Hưng Nguyên. Đầu thế kỷ 15 quân Minh chiếm đóng núi Thành. Sự tích "ăn cổ đầu người" của Nguyễn Biểu trước mặt quan quân Trương Phụ đã thể hiện tính can trường bất khuất của người Đại Việt. Cũng ở núi Lam Thành có chuyện về hàng tướng Thái Phúc biết cải tà quy chính, giúp nghĩa quân Lê Lợi quét sạch giặc Minh, sau khi qua đời được vua Lê phong là Tuyên Nghĩa Vương. Vào giữa thế kỷ 17 xẩy ra cuộc chiến tranh giữa 2 thế lực phong kiến Trịnh - Nguyễn. Sông Lam đã trở thành giới tuyến, nhiều vùng đất Hưng Nguyên là chiến trường đẫm máu. Khi quân Trịnh đẩy lùi quân Nguyễn vào phía nam sông Gianh, thì Hưng Nguyên mới bình yên trở lại.

Núi Thành và vùng phụ cận, đã từng là quận lỵ, châu Lỵ của các đơn vị hành chính thời ngàn năm Bắc thuộc; cũng là vùng trấn lỵ, tỉnh lỵ Nghệ An từ triều Lê Thánh Tông cho đến đầu triều Nguyễn. Tiếc thay, thiên tai và chiến tranh đã làm biến dạng vùng đất trù phú này. Vào cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, nhiều trận lũ lụt lớn xẩy ra; và sự biến đổi của dòng chảy sông Lam, đã làm cho khu buôn bán nhộn nhịp không còn nữa. Người Nhật và người Trung Hoa, đã chuyển việc buôn bán ra phố Hiến, tỉnh Hưng Yên.

Ngày xưa, người dân Hưng Nguyên còn thống khổ vì thiên tai. Khi chưa có hệ thống thuỷ nông hoàn chỉnh, lụt lội, hạn hán xẩy ra thường xuyên,nhân dân cơ cực. Nhưng chính sự khắc nghiệt của thiên tai và chiến tranh đã tôi rèn con người Hưng Nguyên có được những phẩm chất quý giá. Từ thời nhà Lê đến thời nhà Nguyễn toàn huyện có 13 người đậu Tiến sĩ và Phó bảng, 26 người đậu Hương cống và Cử nhân, hàng trăm người đậu Tú tài. Trong số đó có Tướng công Đinh Bạt Tuỵ, đậu đầu khoá thi đặc biệt năm 1554, làm đến chức Thượng thư Bộ Binh. Còn có Nguyễn Trường Tộ , người giáo dân có lòng yêu nước nồng nàn, có tư tưởng canh tân vượt tầm thời đại. Mẹ Lân, người làng Phúc Hậu xã Hưng Xuân có công lớn thời Cần Vương; được cụ Phan Bội Châu ca ngợi là Nữ Hào Kiệt đất Hồng Lam. Nhân dân Hưng Nguyên hưởng ứng mạnh mẽ các phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du và xuất dương. Nhiều người con ưu tú đã anh dũng hy sinh như Bang Lân, Tác Việng, Nguyễn Huy Chước, Trần Diệm, Ngô Thúc Thiêm, Phạm Hồng Thái,…Nhiều người trở thành cán bộ ưu tú của Đảng như Lê Thiết Hùng, Ngô Thúc Tuân, Nguyễn Thị Tích ( Lý Phương Thuận). Đặc biệt có đồng chí Lê Hồng Phong đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng, uỷ viên Ban chấp hành Quốc tế cộng sản; và vợ là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ, Bí thư thành uỷ Sài Gòn Gia Định, nêu một tấm gương sáng ngời về một gia đình Cộng sản.

Từ ngày có Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã có tổ chức và lãnh đạo; tiêu biểu là cuộc biểu tình, của 2 vạn nông dân Hưng Nguyên vào ngày 12 tháng 9 năm 1930. Thực dân Pháp đã đàn áp cuộc biểu tình làm cho 217 người hy sinh. Đây là đỉnh cao của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, vang dội cả thế giới và đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử cách mạng Việt Nam.

Sau cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, giặc Pháp thực hiện chính sách khủng bố trắng, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắn và giam cầm. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt như các đồng chí Lê Mao, Lê Xuân Đào, Võ Trọng Cánh, Nguyễn Hữu Lễ,…Bất chấp hiểm nguy, các đồng chí Chu Huy Mân, Ngô Thúc Tuân, Võ Trọng Ân, Nguyễn Xuân Thành,… đã len lỏi đến từng cơ sở chắp nối liên lạc gây dựng lại phong trào. Nhờ vậy, khi có lệnh tổng khởi nghĩa, Chấp uỷ Việt Minh Hưng Nguyên, đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Vào hồi 17giờ ngày 19 tháng 8 năm 1945, ông Ngô Mậu, Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời phủ Hưng Nguyên ra mắt đồng bào.

Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19 tháng 12 năm 1946 của Hồ Chủ Tịch, nhân dân Hưng Nguyên muôn người như một, tham gia phong trào “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; thực hiện công cuộc giảm tô và cải cách ruộng đất, làm cho mọi người cày đều có ruộng. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Hoà bình mới lập lại chưa lâu, thì nhân dân ta lại phải đương đầu chiến đấu với xâm lược Mỹ và quân nguỵ. Nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, vừa dốc lòng dốc sức cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhân dân Hưng Nguyên đã luôn hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ với Tổ quốc. Hàng vạn Thanh niên và quần chúng Cách mạng đi làm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tại các chiến trường. Trong đó có gần 2.700 người hy sinh, 3.500 người là thương bệnh binh, gần 2.000 người bị nhiễm chất độc da cam, có 80 cán bộ Lão thành cách mạng và Tiền khởi nghĩa, 58 quân nhân bị địch bắt và tù đày; 20.000 người và 8.000 gia đình được thưởng Huân Huy chương kháng chiến, 56 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 2 Anh hùng LLVT nhân dân và 4 Anh hùng lao động. Năm 1962 huyện Hưng Nguyên được Tỉnh trao cờ 9 nhất. Hợp tác xã Ba Tơ xã Hưng Thái do Anh hùng Cao Lục làm Chủ nhiệm, là ngọn cờ đầu sản xuất nông nghiệp toàn miền Bắc. Hệ thống thuỷ nông được công nhận hoàn chỉnh vào năm 1974, đã bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hầu hết diện tích trồng lúa. Đê tả lam (tức đê 42) được bồi trúc chắc chắn. Nạn hạn hán, nỗi lo vỡ đê đã bị đẩy lùi.

Hưng Nguyên tự hào là quê hương của cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong, Liệt sỹ Phạm Hồng Thái, Thượng thư Đinh Bat Tuỵ, Nhà tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ; là một trong những cái nôi của cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, mà đỉnh cao là cuộc biểu tình lich sử ngày 12/9/1930. Hưng Nguyên là nơi sinh cội nguồn ba vĩ nhân: quê hương bà ngoại Bác Hồ; quê tổ Vua Quang Trung; quê tổ Nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu.  Tiếp nối những truyền thống quý báu đó sau ngày thống nhất đất nước đặc biệt từ khi có công cuộc đổi mới. Tốc độ tăng trưởng năm 2021 là 9,6 %. Thu nhập bình quân 48 triệu đồng/ người / năm. Tỷ lệ hộ nghèo chuẩn đa chiều 2,28.  Bộ mặt Hưng Nguyên khởi sắc từng ngày. Đến nay toàn huyện có 16/17 xã đã được công nhận nông thôn mới và trong đó có một xã NTM nâng cao. Vụ lúa hè thu phát triển thành vụ sản xuất chính có năng suất cao. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, Đường giao thông mở rộng và kiên cố hoá. Hầu hết các gia đình có phương tiện nghe nhìn. Trường học từ Mầm non đến Trung học phổ thông đã từng bước kiên cố hoá, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em. Bệnh viện, trung tâm y tế huyện, các trạm y tế xã đáp ứng cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Có 12 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng cấp Quốc gia, 12 di tích được xếp hạng cấp Tỉnh, trên 110 di tích đang được các địa phương bảo tồn và gìn giữ. Các lĩnh vực xã hội được quan tâm, quốc phòng- an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, và hướng tới phục vụ tốt hơn cho nhân dân.

Tự hào những truyền thống hào khí của quê hương Xô viết và những thành quả đạt được trong công cuộc đổi mới, ngày nay Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hưng Nguyên đã không ngừng đoàn kết sáng tạo, đổi mới để xây dựng quê hương Hưng Nguyên ngày càng giàu đẹp./.

Địa chỉ: Toà Nhà A3, Km 14 Quốc lộ 32 Kim Chung , Hoài Đức , Hà Nội